Ngay cả trong những năm không xảy ra đại dịch, cúm và các căn nguyên khác của viêm phổi là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ tám tại Hoa Kỳ, và vi rút đường hô hấp là tác nhân gây bệnh được xác định phổ biến nhất trong số những bệnh nhập viện vì viêm phổi. Tại Hoa Kỳ, dịch cúm theo mùa 2019–2020 dẫn đến hàng chục triệu trường hợp mắc bệnh — phần lớn trong số đó xảy ra trước khi đại dịch coronavirus 2019 (COVID-19) bùng phát. Hiện tại, COVID-19 gây ra hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng mới, đại dịch diễn ra làm áp đảo các hệ thống chăm sóc sức khỏe. Chúng ta có thể dự đoán điều gì khi đại dịch COVID-19 tiến triển và bệnh cúm theo mùa lại tái phát? Làm thế nào để các hệ thống dịch tễ học có thể đưa ra các các chiến lược để chúng ta chuẩn bị?
Đại dịch cúm cuối cùng vào mùa xuân năm 2009 do vi rút H1N1pdm09 gây ra, ước tính có 61 triệu trường hợp mắc bệnh, 274.000 trường hợp nhập viện và 12.500 trường hợp tử vong ở Hoa Kỳ trong năm sau. Mặc dù vắc-xin cúm đã được đưa vào từ năm 2010, nhưng H1N1pdm09 vẫn tiếp tục lưu hành hàng năm trong cộng đồng và là chủng vi rút cúm A chủ yếu trong đợt dịch cúm 2019–2020. Ngược lại, dịch bệnh do coronavirus ở người hiện nay đã giảm bớt khi vắc xin được triển khai rộng rãi. Dựa trên diễn biến của đại dịch COVID-19 cho thấy đại dịch này không thể chấm dứt một cách đột ngột được. Thay vào đó, có khả năng sự lây truyền SARS-CoV-2 trong cộng đồng sẽ tiếp tục khi chúng ta bước vào đợt dịch cúm tiếp theo. Dựa vào một số yếu tố dưới đây sẽ phần nào xác định được mức độ nghiêm trọng của 2 bệnh do vi rút đường hô hấp gây ra và có thể cho chúng ta biết cách chuẩn bị:
- Sự lây nhiễm
Vi rút cúm và SARS-CoV-2 chủ yếu lây lan qua các giọt đường hô hấp được truyền khi tiếp xúc gần gũi với cộng đồng. Do đó, các chính sách giãn cách xã hội được thiết lập để hạn chế lây truyền COVID-19 cũng có hiệu quả chống lại bệnh cúm (3). Hệ quả là nếu các trường hợp COVID-19 bắt đầu tăng đột biến, thì các biện pháp giãn cách xã hội có thể ngăn chặn sự lây lan sớm của bệnh cúm để làm phẳng các đường cong về tỷ lệ mắc bệnh cho cả hai bệnh.
- Tiêm phòng
Nồng độ kháng nguyên cúm có trong vắc xin hàng năm sẽ được xác định hiệu quả trong mùa tới. Đối với năm 2019–2020, hiệu quả của vắc xin cúm là 45% ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ bao phủ vắc xin cúm trong mùa trước chỉ là 45% đối với người lớn ở Hoa Kỳ, bất chấp khuyến cáo về tiêm chủng phổ cập. Do đó, khi chúng ta chờ đợi các thử nghiệm vắc xin SARS-CoV-2, các kế hoạch giảm thiểu gánh nặng tổng thể của bệnh hô hấp nên bao gồm nỗ lực tăng tỷ lệ tiêm vắc xin phòng bệnh cúm, đặc biệt là ở những người lớn tuổi, những người đã tăng nhạy cảm với cả cúm và COVID-19.
- Đồng nhiễm cúm và Covid-19
Đồng nhiễm với một mầm bệnh đường hô hấp khác, bao gồm cả bệnh cúm, xảy ra ở hơn 20% bệnh nhân dương tính với SARS-CoV-2, những người có hội chứng virus đường hô hấp sớm trong đại dịch COVID-19. Khả năng đồng nhiễm mang ý nghĩa chẩn đoán cao, vì không thể sử dụng việc phát hiện căn nguyên thay thế cho hội chứng hô hấp để loại trừ COVID-19 ở những khu vực còn hạn chế xét nghiệm SARS-CoV-2. Các bác sĩ lâm sàng cũng có thể cần phải sửa đổi các phác đồ điều trị tùy thuộc vào loại copathogen cụ thể (ví dụ: oseltamivir cho bệnh cúm). Những phát hiện này nhấn mạnh nhu cầu về việc trang bị rộng rãi các phương pháp chẩn đoán nhanh đối với SARS-CoV-2 và các tác nhân gây bệnh đường hô hấp khác. Việc nhiễm Covid-19 có thể sẽ gây ra nhiều tác hại hậu Covid.
- Tỷ lệ tiêm phòng
Người Mỹ gốc Phi, Latinh và người Mỹ bản địa chiếm đa số trong số các trường hợp mắc và tử vong do COVID-19. Ngoài ra, sự chênh lệch về tỷ lệ tiêm phòng cúm đã từng tồn tại trong các nhóm dân tộc thiểu số. Căn nguyên của sự chênh lệch về chăm sóc sức khỏe rất phức tạp và tồn tại lâu đời. Đại dịch COVID-19 đã làm nổi bật những chênh lệch vô lương tâm này và phải khuyến khích các nỗ lực y tế cộng đồng nhằm hạn chế lây truyền vi rút, tăng tỷ lệ tiêm chủng, triển khai chẩn đoán nhanh và mở rộng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác cho các nhóm dân số dễ bị tổn thương, bao gồm cộng đồng da màu, người nghèo và người già người lớn. Ngoài các sáng kiến y tế công cộng này, việc khắc phục sự chênh lệch liên quan đến bệnh cúm và COVID-19 và sự chênh lệch về kết quả sức khoẻ nói chung sẽ đòi hỏi sự thay đổi xã hội lớn để giải quyết những bất bình đẳng về chủng tộc và kinh tế lâu nay ảnh hưởng đến bệnh đi kèm, nguy cơ lây nhiễm và khả năng tiếp cận kịp thời, tăng cường chăm sóc sức khỏe bình đẳng.
Con người đã phải chịu đựng bệnh cúm trong nhiều thiên niên kỷ và chúng ta chỉ có thể mong rằng COVID-19 sẽ không phức tạp thêm vào các mùa cúm tiếp theo. Các biện pháp để giảm gánh nặng tổng thể của nhiễm vi-rút đường hô hấp – bao gồm giãn xã hội, tăng tỷ lệ tiêm chủng, tăng khả năng chẩn đoán và giải quyết sự chênh lệch về chăm sóc sức khỏe là điều tối quan trọng trong việc lập kế hoạch cho những tháng tới. Hơn nữa, việc đánh giá cẩn thận và sửa đổi các yếu tố này sẽ nâng cao khả năng chuẩn bị trước các đại dịch virus chưa từng xảy ra này.